Dịch Vụ Đặc Trưng Nổi Tiếng Của Hàn Quốc

Dịch Vụ Đặc Trưng Nổi Tiếng Của Hàn Quốc

Hàn Quốc có rất nhiều danh thắng và các địa điểm vui chơi giải trí. Với 4 mùa rõ rệt, địa hình đa dạng bao gồm cả núi, biển, đồng bằng và 1 nền lịch sử lâu đời, Hàn Quốc là đất nước của những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và di tích văn hóa vô giá.

Hàn Quốc có rất nhiều danh thắng và các địa điểm vui chơi giải trí. Với 4 mùa rõ rệt, địa hình đa dạng bao gồm cả núi, biển, đồng bằng và 1 nền lịch sử lâu đời, Hàn Quốc là đất nước của những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và di tích văn hóa vô giá.

Người Hàn Quốc thiếu tính chính xác, chu đáo hay tìm sự dàn xếp chắp vá nhằm giải quyết việc ngay trước mắt

Họ cũng thiếu tính kiên nhẫn nên thường thất bại trong những cuộc đàm phán dài hạn và cần sự kiên trì. Vì tính cách khá nóng vội, vì vậy khi giao việc cho nhân viên, thường phải tiến hành nhanh và báo cáo tiến trình làm việc đầy đủ. Họ đặt kết quả lên trên hết và yêu cầu nhân viên thực hiện ngay lập tức. Nóng tính nóng nhưng có ít nhiều tình cảm, họ la mắng xong và thường là có khuynh hướng làm lành với nhau ngay. Bản thân họ cũng làm việc rất nhanh, tận tụy trong công việc và cần cù.

Khuynh hướng nền tảng của người Hàn là rộng lượng và nhân đạo. Lấy chữ tình ra để giải quyết công việc nhưng thường chính vì thế mà hay bị lợi dụng và hay tổn thương nhau. Họ cũng thường đồng cảm với người khác nhưng tính đố kỵ cũng khá cao. Nhiều khi họ dựa trên cảm tính để giải quyết công việc.

Người Hàn Quốc chú trọng hình thức và sĩ diện mạnh

Họ có chủ nghĩa hình thức thái quá. Họ coi trọng chủ nghĩa tự tôn và cái tôi của mình. Họ cố gắng làm ra vẻ ta đây giàu có, hiểu biết và hơn người vì sợ người khác coi thường, họ không muốn chịu thua và tính canh tranh khá cao. Họ hay chạy theo mốt, kể cả trong việc sử dụng ngôn ngữ, hay chơi chữ và lạm dụng từ nước ngoài để chứng tỏ mình sành điệu và hiểu biết.

Với họ, giáo viên, giảng viên, giáo sư đại học là những tồn tại đáng kính. Vì vậy, làm việc với người Hàn Quốc với thương hiệu giáo viên, giáo sư, giảng viên đều được họ kính trọng hơn. Họ tôn trọng chữ nghĩa quá mức cần thiết.

Rất nhiều bạn trẻ đang làm việc với doanh nghiệp Hàn Quốc đều than rằng sao thuyết phục người Hàn Quốc cải tiến, thay đổi một điều gì đó là vô cùng khó khăn, mặc dù lợi ích của việc thay đổi đã sờ sờ trước mắt. Người Hàn Quốc thường thiếu mềm dẻo trong suy nghĩ, cứng nhắc và họ ngại thay đổi dù là tốt hay xấu. Rất không dễ để khuyên một người Hàn Quốc thay đổi. Trong tiếng Hàn có một từ ngữ rất phổ biến nói về tính cách bảo thủ của người Hàn Quốc đó là “chủ nghĩa cực đoan” (국수주의). Đặc tính tính cách của người Hàn là có âm và dương, nghĩa là hay thay đổi, nhưng để cân bằng điều đó thì lại cần ý tưởng cố định (bảo thủ) để cân bằng.

– Nghệ thuật gấp giấy thủ công (한지공예)

Người Hàn Quốc có truyền thống lâu đời trong nghệ thuật gấp giấy thủ công và cũng đã từ lâu sử dụng những loại giấy chất lượng tốt để gấp nên những chiếc hộp, chiếc bát có nắp đậy, những chiếc bát lớn, giỏ, túi lưới, bình và gạt tàn. Những sản phẩm giấy thủ công khác du khách thường gặp là đồ văn phòng phẩm, thảm chân, đệm, rèm, bao đựng ống tên, bát mài mực, hộp thuốc súng, giày dép, chậu rửa, ấm trà…

Hầu hết các sản phẩm làm từ giấy đều được sơn bóng trên bề mặt nhằm làm tăng tính thẩm mỹ và độ bền, đồng thời làm cho chúng có khả năng chống thấm. Loại sơn phủ thường được dùng là hỗn hợp làm từ nước quả hồng xanh, hồ gạo, và dầu tía tô.

Tranh dân gian là những tác phẩm mà người dân Hàn Quốc thời xưa thường dùng để trang trí nhà ở hoặc để thể hiện những mong ước của họ về đời sống hạnh phúc. Không giống như những tác phẩm hội họa cổ điển ao sang thường tập trung mô tả phong cảnh, hoa lá và chim muông, tranh dân gian thường thể hiện những ý tưởng hài hước, đơn giản và chất phác về cuộc sống của người dân thời xưa.

Tranh dân gian Hàn Quốc là những sáng tác của các họa sĩ thuộc tầng lớp hạ lưu trong xã hội cũ, nhưng các bức tranh của họ lại được tấ cả mọi giai cấp trong xã hội, từ hoàng gia, đền thờ cho đến nông dân ở những làng quê hẻo lánh trưng bày.

Các tác phẩm tranh dân gian thường pha trộn táo bạo, thể hiện phong cách riêng của người họa sĩ và sử dụng những gam màu mạnh.

Tập quán Sesi bao gồm các nghi lễ được cử hành vào các thời điểm giao mùa trong năm và ngày Tết Nguyên Đán. Ví dụ, vào ngày Tết Nguyên Đán, người Hàn Quốc cất bài vị tổ tiên và thực hiện các nghi lễ tưởng niệm với các món ăn và đồ uống truyền thống. Sau nghi lễ này, có lễ sebae (세배) – nghi lễ quỳ lạy những người cao tuổi trong gia đình.

Vào đêm ngày 15 tháng Giêng – ngày trăng tròn đầu tiên trong năm (còn gọi là daeboreum (대보름), một hình nộm làm bằng rơm sẽ được ném xuống sống. Ngày nay, ở nhiều nơi trên đất nước Hàn Quốc đã bỏ tập tục này, nhưng việc chuẩn bị và thưởng thức những món ăn truyền thống với những loại rau đa dạng theo mùa thì vẫn phổ biến.

Ngày 15 tháng Tám âm lịch là ngày Chuseok (추석) – ngày lễ tạ ơn cho vụ mùa bội thu. Trong ngày này mọi người thường đi thăm viếng mộ tổ tiên. Một trong những món ăn đặc biệt được chuẩn bị cho ngày này là songpyeon (송변) – một loại bánh có hình trăng khuyết và được làm từ bột nếp, vừng, đậu xanh, hạt dẻ và các loại ngũ cốc khác.

Hangeul ( 한글 ) – Bảng chữ cái tiếng Hàn Quốc

Bảng chữ cái Hangeul được xây dựng từ thế kỉ 15 bởi vị vua anh minh triều đại Joseon – vua Sejong. Bảng chữ cái gồm 14 phụ âm và 10 nguyên âm. Sự kết hợp giữa phụ âm và nguyên âm hình thành nên âm tiết, do vậy bảng chữ Hangeul có thể tạo thàng hàng nghìn chữ và thể hiện bất kì âm điệu nào. Vì tương đối đơn giản và có số lượng giới hạn, Hangeul rất dễ học. Nạn mù chữ hầu như không tồn tại ở Hàn Quốc nhờ bảng chữ cái dễ sử dụng này.

Talchum ( 탈춤 ) – Mặt nạ và múa mặt nạ

Mặt nạ, thường được gọi là “tal” trong tiếng Hàn Quốc, được làm từ giấy, gỗ, quả bầu khô, và lông. Hầu hết các loại mặt nạ đều phản ánh sắc thái và cấu trúc xương của gương mặt người Hàn nhưng cũng có một số loại mặt nạ thể hiện khuôn mặt của các vị thần và con vật, bao gồm cả tả thực và tưởng tượng. Hình dáng của các loại mặt nạ thường kì lạ và đã được cách điệu, vì “talchum ” – loại hình múa mặt nạ -thường được biểu diễn vào đêm dưới ánh sáng của các đống lửa.

Múa mặt nạ về cơ bản là loại hình nghệ thuật dân gian phát triển tự nhiên trong nhân dân thời kỳ Joseon, thời kỳ mà có ít sự phân biệt giữa giai cấp thống trị và thượng lưu trong xã hội với người dân thường. Các nghệ sĩ diễn viên và khán giả cùng hoà nhập vào các điệu múa tưng bừng ở cuối mỗi buổi biểu diễn.

Nhân sâm được trồng rộng rãi ở Hàn Quốc vì điều kiện khí hậu đất đai ở đây rất thích hợp. Để phân biệt nhân sâm trồng tại Hàn Quốc với sản phẩm có xuất xứ khác trên thế giới, nhân sâm Hàn Quốc được đặt tên là “Goryeong Ginseng” theo tên triều đại Goryeo – triều đại đã hình thành tên Hàn Quốc trong tiếng Anh là Korea.

Nhân sâm được sử dụng như là liều thuốc tăng cường sinh lực và phục hồi sức khỏe. Người ta tin rằng nhân sâm giúp tăng cường chức năng của các của các cơ quan quan trọng trong cơ thể, ổn định tim, bảo vệ dạ dầy, tăng cường chịu đựng và sự ổn định của hệ thần kinh. Nhân sâm là một yếu tố cốt lõi trong Đông y, nhưng người Hàn Quốc thường dùng nhân sâm theo cách đơn giản hơn là uống trà hay rượu.

– Chùa Bulguksa (불국사) và Seokguram Grotto (석굴암)

Bulguksa là một trong những ngôi chùa Phật giáo lớn nhất và đẹp nhất Hàn Quốc, nằm ở Gyeongju, trước đây là thủ phủ của vương quốc Silla (57 trước CN – 935 sau CN). Bulguksa ban đầu là một ngôi chùa nhỏ mà nhà vua Beop-heung (법흥) (514-549) triều đại Silla đầu tiên sùng tín Phật giáo, đã xây dựng để cầu mong phồn thịnh và an bình cho vương của quốc của mình.

Kiến trúc hiện nay của ngôi chùa có từ năm 751 khi nó được xây dựng lại. Trước kia, chùa gồm có 80 tòa nhà, nhiều gấp mười lần số lượng còn lại cho tới ngày nay. Chùa nằm trên núi cao, phía sau lưng là Seokguram, động bằng đá nhân tạo được biết đến như là một trong những động đá đẹp nhất của đạo Phật.

Seokguram bao gồm một tiền sảnh hình chữ nhật và một lễ đường hình tròn với vòm trần nối liền với hành lang cũng xây dựng theo hình chữ nhật. Seokguram và Bulguksa đã được đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO từ năm 1995.

Bán đảo Triều Tiên có hai ngọn núi đẹp là núi Seoraksan ở Hàn Quốc và núi Geumgangsan ở CHDCND Triều Tiên. Seoraksan là rặng núi kéo dài theo hướng nam của núi Geumgangsan, thường được biết đến với tên gọi núi Kim Cương thuộc CHCDCN Triều Tiên.

Rừng của núi Seoraksan với đỉnh cao nhất (cao 1708m so với mực nước biển), là khu rừng hỗn hợp gồm các loại cây tán rộng với nhiều loại cây xuất xứ từ vùng núi Al-pơ (Alpes) và những cây quả hình nón, là nơi cư trú của 939 loài thực vật và 25 loại động vật, 90 loài chim, 11 loài bò sát, 9 loại động vật lưỡng cực, 360 loài côn trùng và 40 loài cá nước ngọt.

Người Hàn Quốc thể hiện tài năng của mình trong lĩnh vực âm nhạc và nghệ thuật. Nghệ sĩ violin Sarah Chang (사라장) đã ra album đầu tiên khi mới chính tuổi. Một nghệ sĩ violin nổi danh khác người Hàn Quốc là Chung Kyung-hwa (정경화) đang giữ danh hiệu một trong những nghệ sĩ được chào đón nhất trên sân khấu quốc tế trong suốt 25 năm nay. Nghệ sĩ Soprano Jo Su-mi (조수미) được chỉ huy dàn nhạc tài ba Herbert von Karajan phát hiện và theo nhận định của ông Herbert thì chị có giọng hát thiên phú.

Nhiều người hẳn sẽ ngạc nhiên vì Paik Nam-june, người gốc Hàn Quốc, được mệnh danh là cha đẻ của nghệ thuật video, đã bắt đầu sự nghiệp với tư cách là nhạc sĩ và nhà soạn nhạc. Năm 1953, ông trở thành người đầu tiên có triển lãm thiết bị truyền hình. Kể từ đó, Paik đã có ảnh hưởng đối với nghệ thuật đương đại, video và truyền hình qua những tác phẩm nối liền thế giới nghệ thuật, báo chí, công nghệ, văn hóa nhạc pop và những thể loại nghệ thuật mới.

Nghệ thuật in trên phiến gỗ (목판인쇄) bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 ở Hàn Quốc. Bộ chữ in kim loại đầu tiên của thế giới được người Hàn Quốc phát triển trước phát minh của Gutengerg (người Đức) hơn 200 năm. Thường dân triều đại Goryeo (918-1392) đã làm ra Bộ kinh Phật Koreana từ thế kỷ 13 và được công nhận là bản khắc gỗ kinh Phật còn tồn tại lâu đời nhất. Bộ kinh Phật Koreana (Tripitaka Koreana/팔만대장경) đã được xếp hạng di sản văn hóa thế giới của UNESCO năm 1995.

Có khoảng 50 nhạc cụ truyền thống của người Hàn Quốc đã được truyền lại qua nhiều thế hệ. Bao gồm loại đàn 12 dây gayageum (가야금) và đàn 6 dây geomungo (거문고). Cả hai loại nhạc cụ này đều được xác định là xuất hiện từ thế kỷ thứ 5.

Nhạc cụ truyền thống Hàn Quốc được chia ra thành ba nhóm: đàn dây, đàn gió và bộ gõ. Đoàn nghệ thuật tứ tấu Samulnori Kim Duk-soo (사물놀이 김덕수) rất nổi tiếng trong và ngoài Hàn Quốc vì sự sáng tạo trong kết hợp giai điệu truyền thống và hiện đại tạo nên một thể loại nhạc rất độc đáo.

Hình trang trí trên các tòa nhà

Dancheong là hình trang trí màu sắc theo kiểu Hàn Quốc trên nóc các tòa nhà và những hình trang trí thể hiện vẻ đẹp và giá trị nghệ thuật đích thực. Dancheong gồm có năm màu: đỏ, xanh, vàng, đen và trắng. Bên cạnh chức năng trang trí, Dancheong còn được dùng vào những mục đích thực tế.

Dancheong được dùng để bảo vệ bề mặt tòa nhà và che đi những vết thô ráp trong chất liệu được sử dụng đồng thời nhấn mạnh đặc điểm và thể hiện phẩm cấp của tòa nhà hay đối tượng nào đó. Dancheong có ở hầu hết mọi tòa nhà truyền thống, bao gồm cả đền chùa, bất kể chúng nằm ở thủ đô Seoul hay các tỉnh khác.

Các hoa văn họa tiết thường bắt nguồn từ những chữ viết cổ. Ban đầu chúng là công cụ để thể hiện những nhu cầu tình cảm với môi trường xung quanh con người, sau đó được phát triển thành các mẫu trang trang trí nghệ thuật.

Các hoa văn thường thấy được sử dụng phổ biến ở Hàn Quốc là hình rồng, phượng hoàng, và biểu tượng thái cực taegeuk (태극) trên quốc kỳ của Hàn Quốc taegeuki (태극기) – gồm hai hình âm dương đối lập, tượng trưng cho âm và dương, nhu và cương, tĩnh và động, nam và nữ… Ngoài ra còn có những họa tiết tượng trưng cho sự trường tồn, như đá, núi, nước, mây, cây thông, con rùa, con hươu, con sếu, và mặt trời.

Thêu được thực hiện trên vật liệu vải và các đồ trang trí như bình phong gấp. Thêu cung được dùng để trang trí nhiều vật phẩm trong nhà, như gối, bao đựng kính, rèm và túi đựng thuốc lá, thìa và đũa, bàn chải đánh răng…

Thời xưa, thường dân Hàn Quốc không được mặc vào có hình thêu thùa, trừ các bộ lễ phục mặc vào ngày thành hôn. Không giống như nghệ thuật thêu phục vụ mục đích trang trí đơn thuần, các đồ thêu trang trí đền chùa, tượng, chỉ dành riêng cho Phật giáo.

Bojagi là mảnh vải hình vuông có viền xung quanh với các kích cỡ, màu sắc và họa tiết trang trí khác nhau. Người Hàn Quốc thường dùng bojagi để bọc, gói các đồ vật. bojagi ngày nay vẫn được sử dụng, mặc dù không phổ biến như trước đây. Trong cuộc sống thường nhật, bojagi làm tăng tính độc đáo và kiểu cách của các nghi lễ.

Thẩm mỹ của dân tộc Hàn Quốc được đặc biệt phản ánh rõ nét qua những mảnh bojagi được bàn tay các bà nội trợ chắp lại với nhau để tiết kiệm những mảnh vải thừa, vải vụn. Các hình thêu và các họa tiết khác làm cho bojagi thêm duyên dáng. Khi không sử dụng, có thể gấp bojagi giống như một chiếc khăn tay nhỏ.