Hệ Thống Giáo Dục Của Mỹ

Hệ Thống Giáo Dục Của Mỹ

Hệ thống giáo dục Mỹ cung cấp rất nhiều lựa chọn chất lượng cho sinh viên quốc tế. Có nhiều loại trường, nhiều chương trình học và nhiều địa điểm khác nhau có thể làm học sinh choáng ngợp dù là với học sinh Mỹ hay du học sinh quốc tế. Nếu bạn đang bắt đầu tìm hiểu về du học Mỹ, hãy bắt đầu tự làm quen với hệ thống giáo dục Mỹ trước. Việc hiểu về hệ thống giáo dục sẽ giúp bạn thu hẹp những lựa chọn của mình, đồng thời phát triển thêm kế hoạch giáo dục của bạn.

Hệ thống giáo dục Mỹ cung cấp rất nhiều lựa chọn chất lượng cho sinh viên quốc tế. Có nhiều loại trường, nhiều chương trình học và nhiều địa điểm khác nhau có thể làm học sinh choáng ngợp dù là với học sinh Mỹ hay du học sinh quốc tế. Nếu bạn đang bắt đầu tìm hiểu về du học Mỹ, hãy bắt đầu tự làm quen với hệ thống giáo dục Mỹ trước. Việc hiểu về hệ thống giáo dục sẽ giúp bạn thu hẹp những lựa chọn của mình, đồng thời phát triển thêm kế hoạch giáo dục của bạn.

Các đặc điểm của hệ thống giáo dục đại học Mỹ

Phạm vi các lớp học thì đa dạng. Sẽ có từ các giảng đường lớn với vài trăm sinh viên cho đến các lớp học và hội thảo (lớp thảo luận) nhỏ hơn chỉ với một vài sinh viên. Các lớp học tại đại học Mỹ thường sẽ có không ký rất năng động. Bạn luôn được khuyến khích đưa ra ý kiến, phản biện quan điểm, tham gia thảo luận và cả thuyết trình. Sinh viên quốc tế nhận thấy rằng đây là một trong những khía cạnh đáng ngạc nhiên nhất của hệ thống giáo dục Hoa kỳ.

Mỗi tuần các giảng viên luôn giao bài tập trong sách giao khoa và bài tập thêm khác. Bạn sẽ phải cập nhật thường xuyên với các bài đọc được yêu cầu và bài tập về nhà để mà bạn có thể tham gia thảo luận và hiểu bài giảng trên lớp. Các chương trình cấp bằng nhất định cũng yêu cầu sinh viên dành thời gian trong phòng thí nghiệm.

Các giảng viên chấm điểm cho mỗi học sinh trong lớp của mình. Điểm số thường dựa trên:

Mỗi khoá học sẽ có giá trị bằng một số tín chỉ hoặc giờ tín chỉ nhất định. Con số này gần bằng với số giờ học mỗi tuần mà một sinh viên dành trên lớp trong khoá học đó. Một khoá học thường có giá trị từ ba đến năm tín chỉ.

Một chương trình toàn thời gian ở hầu hết các trường sẽ có 12 đến 15 giờ tín chỉ (4 hoặc 5 khoá học mỗi kỳ) và một số lượng tín chỉ nhất định phải được hoàn thành để tốt nghiệp. Những sinh viên quốc tế được kỳ vọng nộp đơn vào chương trình toàn thời gian trong suốt mỗi học kỳ.

Nếu một sinh viên nộp đơn vào một trường đại học mới trước khi hoàn thành chương trình học lấy bằng, thì thường hầu hết các tín chỉ đã đạt được ở trường đầu tiên có thể được sử dụng để hoàn thành bằng cấp tại trường đại học mới. Điều này có nghĩa là một sinh viên có thể chuyển tiếp đến đại học khác và vấn có thể tốt nghiệp đúng với thời hạn.

Các loại giáo dục sau trung học – giáo dục đại học Mỹ

Như đã đề cập ở trên, trường cao đẳng hoặc đại học bang được điều hành bởi chính phủ. Các trường cao đẳng hoặc đại học bang cung cấp một lộ trình sau trung học với chi phí hợp lý hơn. Các trường thường có sẵn một loạt các chương trình cấp bằng.

Sinh viên theo học sẽ được tiếp cận với cuộc sống campus xôi động, nhiều hoạt động ngoại khoá và các phương tiện giảng dạy hiện đại. Các trường cao đẳng, đại học công lập tại Mỹ có hơn 60,000 sinh viên nhập học.

Nhiều trường đại học công lập này sẽ được đặt tên theo bang hoặc chứa “State” trong tên trường. Ví dụ, Trường đại học bang Washington – Washington State University và trường University of Michigan. Một vài trường đại học bang có thể kể đến như:

Cao đẳng hoặc đại học tư thục

Các trường cao đẳng và đại học tư thục (Private College or University) được điều hành bởi tư nhân thay vì chính phủ. Thường thì các trường cao đẳng và đại học tư thục Mỹ sẽ có quy mô lớp học nhỏ hơn các trường công lập. Vì vậy, sinh viên dễ dàng trong việc tiếp cận, trao đổi, xây dựng mối quan hệ với giảng viên và cố vấn của mình.

Trường cao đẳng, đại học tư có danh sách các chương trình cấp bằng nhỏ hơn. Nhưng sinh viên quyền lựa chọn để tuỳ chỉnh những chương trình cấp bằng của mình.

Các trường cao đẳng và đại học liên kết tôn giáo cũng là trường tư thục. Gần như tất cả các trường này sẽ chào đón sinh viên của mọi tôn giáo và tín ngưỡng. Nhưng, có một phần trăm các trường sẽ thích nhận sinh viên có niềm tin tôn giáo tương tự như tôn giáo ban đầu trường được thành lập.

Trong số các trường cao đẳng, đại học tư thục cũng có Ivy League, rất danh giá.

Ivy League là một trong những nhóm trường đại học tốt nhất trên thế giới. Nó bao gồm một nhóm 8 trường đại học giàu lịch sử. Tất cả trường thuộc Ivy League đều được đặt tại phía bắc của Mỹ (Bắc Mỹ). Ivy League được chính thức thành lập vào những năm 1950s và là một hiệp hội thể thao. Cho tới ngày nay thì nó vẫn là một hiệp hội thể thao, đồng thời cũng là những người dẫn đầu về mặt trí tuệ. 8 trường bao gồm:

Các trường Cao đẳng Cộng đồng (Community College) là trường cao đẳng 2 năm mà cấp bằng cao đẳng – associate’s degrees (có thể chuyển tiếp), cũng như cấp chứng chỉ. Có nhiều loại bằng cao đẳng khác nhau nhưng yếu tố phân biệt quan trọng nhất là liệu bằng cấp đó có thể được chuyển tiếp hay không. Thông thường, có hai hướng bằng chính: một là dùng cho chuyển tiếp học thuật và hai là để sinh viên xin vào làm ngay lập tức. Các bằng để chuyển tiếp đại học thường là associate of arts hoặc là associate of science. Bằng không thể chuyển tiếp được thì có associate of applied science và certificates of completion.

Các sinh viên tốt nghiệp cao đẳng cộng đồng thường phần lớn là chuyển tiếp lên cao đẳng hoặc đại học 4-năm để hoàn thành lấy bằng. Vì họ có thể chuyển những tín chỉ đã hoàn thành trong trường cao đẳng cộng đồng. Các sinh viên này có thể hoàn thành chương trình cấp bằng cử nhân trong hai hoặc ba năm. Nhiều trường cũng cung cấp ESL hoặc chương trình tiếng Anh chuyên sâu mà chúng sẽ chuẩn bị cho sinh viên cho các khoá học ở đại học.

Nếu bạn không lên kế hoạch để lấy bằng cao hơn bằng cao đẳng, bạn nên tìm một bằng cao đẳng nào sẽ đủ điều kiện cho bạn xin việc ở quốc gia của mình.

Viện công nghệ (Institute of Technology) là loại trường cung cấp tối thiểu bốn năm nghiên cứu về khoa học và công nghệ. Một vài có chương trình sau đại học, trong khi một vài trường khác cung cấp các khoá học ngắn hạn. Một vài trường phổ biến như là:

Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp từ các trường Đại học danh tiếng thuộc khối IVY LEAGUE danh giá

Du học Mỹ lớp 10 đang thu hút sự quan tâm đặc biệt từ phụ huynh và sinh viên trẻ. Đây không chỉ là cơ hội để học sinh trải nghiệm môi trường giáo dục hàng đầu thế giới mà còn là bước đệm quan trọng trong hành trình học…

Chúc mừng bạn đã hoàn tất mọi thủ tục đến với nước Mỹ. Tuy nhiên, trước khi bay bạn nên chuẩn bị thật kỹ mọi hành trang để hành trình suôn sẻ hơn. Cùng tham khảo những kinh nghiệm chuẩn bị đồ trước khi đi du học Mỹ trong bài…

"Ở độ tuổi nào cho con đi du học là thích hợp nhất ?" Thật khó mà trả lời câu hỏi này, nếu không hiểu rõ khả năng tiếp thu và mong muốn của mỗi học sinh.

Không giống như các quốc gia khác, giáo dục phổ thông ở Mỹ là một nền giáo dục cưỡng bách và tự chọn, tự học ngoài những môn học bắt buộc. Học sinh có cơ hội phát huy năng khiếu của mình về một môn nào đó ngay từ lúc còn học ở trung học phổ thông. Trước khi quyết định cho con em đi Mỹ du học, tôi mong quí vị hãy tìm hiểu về hệ thống giáo dục ở bậc phổ thông ở Mỹ như thế nào, rồi bàn thảo với con cái, để chuẩn bị cho chúng trước. Theo thống kê của bộ giáo dục Hoa Kỳ, bộ phận National Center for Education Statistic, nước Mỹ có hơn 27,000 trường trung học phổ thông công lập (Public high school) và hơn 11,000 trường THPT tư thục, với một số lượng trường phổ thông nhiều như vậy, lựa được một trường thích hợp cho con, không phải là chuyện dễ dàng. Quí vị tự xin học cho con hay qua trung gian một công ty/tổ chức tư vấn du học, thì quí vị cũng cần phải tìm hiểu thật kỹ trước về trường mà con mình sẽ học. Nếu những gia đình có kinh phí tốt, nên đích thân quí vị và con, xin qua Mỹ du lịch tham quan trường. (Xin du lịch tham quan trường trước, sau này xin visa du học thì cơ hội đạt visa sẽ rất cao bởi Viên chức xét visa cũng thấy được tính nghiêm túc tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đi du học của học sinh). Tham quan trường trước, như vậy quí vị sẽ chọn được một trường thích hợp nhất cho con. Các em học sinh và phụ huynh Việt Nam, thường có tư tưởng là phải học trường "Top". Vậy, như thế nào mới là trường "Top".

I – Trung học phổ thông ở Mỹ - U.S High School

- Private high school – Trường trung học tư thục

- College preparatory schools – Trường dự bị đại học – Chương trình học nhiều hơn, gắt gao hơn để chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng vào đại học. Cũng như chường trình AP & IB (Advance Placement & International Baccalaureate)

- Parochial schools hay còn gọi là religious affiliated schools – trường tôn giáo – dành riêng cho giáo dân của giáo phận địa phương. du học sinh, nếu cư ngụ trong phạm vi của giáo phận và là giáo dân của nhà thờ thì sẽ được hưởng mức học phí như giáo dân của nhà thờ.

- Quan niệm, du học sinh chỉ được phép học trường trung học tư thục là hoàn toàn không đúng. Con em của quí vị có thể học ở bất cứ trường loại nào, nếu quí vị biết cách hoặc tìm hiểu kỹ.

II - Hướng dẫn ngành học Ở Mỹ chỉ có 2 loại bằng, bằng về nghệ thuật (Art degree) và bằng về khoa học (Science degree): 1. Art degree – Hay còn gọi là Liberal Art degree là danh từ xuất xứ từ tiếng La Tinh (artium baccalaureus) hay Bachelor of Art (BA) cấp cho những ai học các bộ môn như: Ngôn ngữ học, nhân văn, xã hội, toán học, khoa học thể dục và văn học. 2. Science degree – Là bằng cấp cho những ai học về khoa học và kỹ thuật. Học sinh ở Mỹ khi bắt đầu vào high school, hầu hết, biết mình sẽ làm nghề gì sau này, nên biết chọn lớp học và xắp xếp thời khoá biểu học tập. Ví dụ, em nào muốn làm thợ máy, thì chọn học sửa máy nhiều hơn, và đồng thời học những lớp bắt buộc để lấy bằng trung học phổ thông, em nào chọn làm kỹ sư sau này, thì sẽ học những lớp AP/IB về toán và khoa học tự nhiên, em nào muốn làm bác sĩ thì chọn AP sinh học, em nào muốn làm cho ngân hàng thì sẽ học Anh văn, kế toán, luật thương mại v.v... Ngược lại, học sinh ở Việt Nam không có được sự lựa chọn, phải học theo giáo trình chỉ định của bộ giáo dục. Những môn nào học sinh không thích sẽ trốn học, hay lơ là, như vậy sẽ bị điểm thấp. Quí vị phụ huynh nên quan tâm tới con cái, xem con mình học môn nào được cao điểm nhất, hướng dẫn cho chúng những ngành thích hợp với sở thích và năng khiếu, chọn đúng ngành học như vậy khả năng con quí vị học thành tài rất là cao. Đừng để con cái vì theo xu hướng hay vì bạn chọn học ngành nào, chúng theo ngành đó, như vậy là chọn lầm nghề. Và cũng đừng ép con cái phải học ngành mà bạn mong muốn, chỉ phí tiền bạc và sẽ làm lỡ hết tương lai của chúng.

III - Chương trình giảng dạy ở high school Trung học phổ thông ở Mỹ, học được tính theo tín chỉ, tuỳ theo yêu cầu của mỗi tiểu bang, học khu và mỗi trường từ 18 tới 38 tín chỉ. Học sinh lấy đủ tín chỉ và qua được bài thi "High school exit exam" thì sẽ được cấp bằng tốt nghiệp. Ở Mỹ không có chuyện học nhảy lớp, học sinh lớp 9 và lớp 12 học chung một lớp là chuyện bình thường. Chương trình và cách giảng dạy ở high school giống như trên đại học, vì vậy học sinh học xong lớp thấp, thì mới được phép học lớp cao hơn. Ví dụ: lớp toán đại số phương trình bậc 2 (Algebra 2), học sinh nào đã học lớp algebra 1 ở THCS (Middle school) rồi thì khi vào high school được phép học lớp này, ngược lại học sinh lớp 12 mà còn thiếu hay điểm không đủ, thì bắt buộc phải học lớp này để tốt nghiệp. Các em học lớp 9 hay lớp 12, không có gì quan trọng, phải lấy đủ tín chỉ thì mới được ra trường. Nên phần chương trình giảng dạy và các yêu cầu của trường, quí vị phụ huynh và các em học sinh phải hiểu thật rõ.

1 – Graduation requirements – Các môn học đòi hỏi để tốt nghiệp

- English (Anh văn)…………………. 4 năm………….…. 4 tín chỉ (credit/unit)

- Mathematic (Toán)…..…………….. 3 năm …………..… 3 tín chỉ

- Science (Khoa học) 2lớp có lab……..3 năm…………..….3 tín chỉ

- Social Studies (xã hội học)(*)………3 năm……………….3 tín chỉ

- Visual Art (Nghệ thuật)……………..1 năm …………..….1 tín chỉ

- Foreign language (ngoại ngữ)……….2 năm ……….…….2 tín chỉ

Các lớp được tự chọn theo sở thích

- Fitness/ physical education PE………1.5 năm …………..1.5 tín chỉ

- Health science……………………….0.5 năm ………….. 0.5 tín chỉ

- Occupational education ……………..1 năm ………….….1 tín chỉ

- Career concentration ………………. 2 năm ……………...2 tín chỉ

- Visual Art (thêm).……………….….1 năm ………………1 tín chỉ

- Electives (xem giải thích)…………..4 năm……………….2 – 8 tín chỉ

Tổng cộng 24 tín chỉ, tính theo yêu cầu của tiểu bang Washington State. Chú thích:

- Social science: những lớp sau sẽ được tính cho social study: U.S History, World History, U.S Government, Economics, Accounting, Business Law, Sociology, Psychology và Criminology. Học sinh chỉ cần lấy 3 lớp là xem như đã học xong môn Social Studies và muốn học từ lớp 9 hay lớp 12 tùy ý, miễn sao đủ 3 tín chỉ là xong.

- Math: Algebra 1, algebra 2, và geometry là bắt buộc. Nhiều học sinh ở Mỹ, vì lý do gì đó chỉ muốn học xong high school, rồi lên cao đẳng cộng đồng học 1 nghề gì đó, rồi đi làm. Riêng những học sinh muốn tiếp tục lên đại học, bắt buộc phải học lớp Precalculus. Có học lớp này thì lên đại học mới được phép lấy lớp calculus.

- Science: Về môn khoa học thì học sinh được tự do lựa chọn miễn sao có 2 lớp có giờ thí nghiệm là được, gồm các môn sau: Biology, physics, chemistry, geology, anatomy, astronomy, health science, environmental science, and forensic science.

- Electives classes: Các lớp tự chọn

- English: Anh ngữ Journalism, public speaking/debate, foreign language, literature, drama, and writing. Anh ngữ là lớp học bắt buộc mỗi năm Nhiều em học sinh Việt, sẽ không đủ Anh ngữ để theo những lớp Anh văn bình thường dành cho học sinh lưu loát tiếng Anh, nên rất nhiều trường có chương trình English as a Second Language (Anh ngữ như một ngôn ngữ thứ hai) ESL. Trình độ Anh ngữ của các em phải ở mức trung bình (Intermediate level). Các lớp ESL dưới mức này không được tính tín chỉ. *** Advanced Placement (AP) program, chương trình này được sự bảo trợ của College Board. Một tổ chức quản lý các bài thi chuẩn vào đại học như SAT. Chương trình giảng dạy của AP theo tiêu chuẩn của đại học, nên được rất nhiều trường đại học chấp nhận cho tín chỉ (3000/8000 trường đại học). Trước khi các em lấy những lớp AP này, hãy xem trường đại học mà các em sẽ chọn, có chấp nhận cho tín chỉ hay không. Nếu không cho, thì đừng phí thì giờ. Khi các em có đủ tín chỉ để được xếp vào lớp 11, và học bạ của các em tốt (3.6 - 4.0 GPA) thì xin counselor cho học chương trình dual enrollment hay còn gọi là Running Start của tiểu bang Washington, vừa học high school vừa học đại học/ community college. Chương trình này bảo đảm cho các em vừa có tín chỉ ở high school và đại học cùng 1 lúc. *** International Baccalaureate (IB), xuất phát từ Thụy Sĩ, rất ít trường ở Mỹ có chương trình này. Mục đích các em tới Mỹ học, và học làm sao để cho dù không phải là những học sinh xuất sắc tự nhiên, các em vẫn đạt được điểm cao nhất, để xin vào đại học với số chi phí thấp nhất. Vậy tôi xin miễn nói tới phần này.

2 - Niên học Một năm học thông thường có 2 khoá chính, mùa thu và mùa xuân, tuy nhiên cũng có trường dạy 3 khoá một năm thì gọi là year-round school., cũng có một số trường dạy thêm khoá mùa hè (nếu ngân sách cho phép). Và mỗi ngày trung bình học 6 tiết học, các lớp học nguyên năm như: Anh văn, các lớp AP..., các lớp chỉ học 1 khoá là xong như: US History, art, PE, electives... Tới đây, tôi nghĩ các vị phụ huynh và các em học sinh đã hiểu được phần nào về hệ thống giáo dục ở bậc trung học phổ thông bên Mỹ. Tôi nghĩ cũng nên nói sơ về cách chọn và sắp xếp lớp học, sao cho các em không bị bài vở nhiều quá, không còn thì giờ tham gia các hoạt động ngoại khoá của trường (Extracurriculum activities) EA. Những môn học nào các em cho là khó nuốt nhất, thì chọn học tiết đầu tiên. Vì sau một đêm ngủ ngon, buổi sáng là lúc đầu óc các em minh mẫn nhất, chọn là lớp đầu tiên, các em sẽ tiếp thu dễ hơn, rồi tới lớp khó vừa, dễ. Sau giờ ăn trưa, các em sẽ cảm thấy buồn ngủ, vậy sau giờ ăn là lớp thể dục, hay lớp nghệ thuật. Nhớ một điều là đừng bao giờ để giáo viên cố vấn (Counselor) sắp xếp lớp học cho mình. IV – "Ở độ tuổi nào đi du học là tốt nhất?"

Mười sáu tuổi là lứa tuổi đi du học thích hợp nhất đối với những em mà học lực và Anh văn chỉ ở mức trung bình. Phần nhiều các em 16 tuổi đã học xong lớp 10. Các em tùy theo trường, được phép học lại những môn bị kém điểm và giữ lại những lớp nào được cao điểm. Đừng quan tâm đến chuyện học kém các bạn học khác một hay hai lớp, môi trường high school ở Mỹ thích hợp nhất cho các em. Các em có cơ hội tham gia các hoạt động của trường, bạn học là giới cùng tuổi, văn hóa Mỹ các em hiểu rõ, ngôn ngữ của giới "Teen" các em hiểu được, nên trình độ Anh ngữ của các em sẽ không thua kém người Mỹ. Nếu em nào chịu khó, vừa học high school vừa học chương trình "Dual Enrollment" thì khi vừa xong high school các em đã học được 1 tới 1.5 năm của đại học. Có thể các em sẽ lấy bằng đại học trước những học sinh chọn cao đẳng cộng đồng hay vào thẳng đại học. Luật lệ của vài tiểu bang như: Washington State, Illinois, California, Pennsylvania v.v… cho phép những học sinh tốt nghiệp high school ở Mỹ, được hưởng mức học phí tính theo cư dân của tiểu bang. Đặc biệt là tiểu bang Washington State, chỉ cần các em cư ngụ trong học khu, và có người giám hộ là cư dân của tiểu bang thì các em được học trường public high school gần nhà nhất MIỄN PHÍ, trường không hỏi tới tình trạng cư trú của học sinh. Cho dù là học trường công hay trường tư, các vị phu huynh và các em học sinh hãy nhớ nguyên tắt này: Tìm hiểu – Chọn lựa – Tham quan – Phương pháp học – Thành tài

Tôi hy vọng bài này giúp được các bạn và các em học sinh. Đồng thời mời các bạn và các em học sinh đón đọc bài về hệ thống đại học Hoa Kỳ và chiến thuật của Tôn Tử "Biết người biết ta, trăm trận đánh, trăm trận thắng." áp dụng vào việc xin học, trường đại học tốt nhất, với gói tài trợ học phí rộng rãi nhất.