Bạn chưa đăng nhập hoặc bài hát này không phải của bạn đăng.
Bạn chưa đăng nhập hoặc bài hát này không phải của bạn đăng.
“Đường không cách trở bao nhiêu
Cò bay thì được, tôi về thì không”…
(Buồng cau quê ngoại, tân cổ Thu An)
Đó là trải lòng của nhà sư Thích Pháp Hòa trong một Pháp thoại ở Thái Lan đầu tháng 3-2024. Tâm sự này ở một nhà sư đã gây xúc động với tất cả thính giả ở khán phòng. Vì lẽ tế nhị nào đó, thầy Pháp Hòa không nêu cụ thể lý do vì sao mà nhà nước Việt Nam “không hoan nghênh” về sự trở về này.
Một Phật tử có nhận xét: “Thầy Pháp Hòa không thuyết giảng đức tin tôn giáo. Thầy dùng Phật pháp và những chánh niệm đạo pháp như phương tiện để chuyển tải những thông điệp ý nghĩa và lẽ sống bác ái, dạy người nghe biết tự chế ngự tâm tính mình. Người nghe như bị lôi cuốn những chánh pháp từ bi, hướng thiện, được truyền đạt bằng một ngôn ngữ Việt giản dị, chân thành lại dí dỏm nhưng đầy uyên thâm, trí tuệ. Chứa đựng đủ những điển tích, thi văn, lịch sử.
Phật tử nghe càng thấm nhuần, hiểu hơn lời Phật dạy để sống tịnh mặc với chân lẽ đó. Còn chẳng phải Phật tử, người nghe vẫn cảm nhận sâu xa con đường dẫn đến sự bình an tâm hồn. Đó là lý do hàng triệu người Việt trong và ngoài nước đã đến với thầy Pháp Hòa trong vài năm qua và ngày càng đông đảo hơn”.
Thầy Pháp Hòa không kêu gọi “cúng dường”, và cũng không… ngợi ca thể chế chính trị đương thời ở Việt Nam như nhiều nhà sư quốc doanh tại quê nhà răm rắp phụng sự theo tôn chỉ “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.
Tuy vậy lý lịch tóm lược cho thấy “không dấu hiệu nào về chính trị” để tạo cho Hà Nội sự ngại ngần về thầy Thích Pháp Hòa, ngoại trừ sự nổi tiếng với đông đảo ‘fan’ hâm mộ: Thầy sinh năm 1974 tại Cần Thơ. Thầy là con trưởng trong gia đình có hai người con trai. Năm lên 6 tuổi, cha thầy đã sang Canada định cư. Đến năm 12 tuổi thì mẹ, thầy và em trai mới được bảo lãnh sang Canada. Tuy sống tại nước ngoài nhưng thầy đã duyên với Phật pháp từ bé.
Sau khi được làm lễ quy y Tam Bảo, thầy Pháp Hòa đã nhờ mẹ lập bàn thờ Phật để hàng đêm đọc kinh, cúng dường. 15 tuổi, khi đã đủ hạnh nguyên, thầy Pháp Hòa chính thức xuất gia tu hành với Thượng tọa Thích Thiện Tâm (hiện nay là Hòa thượng, Viện chủ tu viện Trúc Lâm và tu viện Tây Thiên ở Canada).
Năm 1994, khi tròn 20 tuổi, thầy Thích Pháp Hòa chính thức được thọ ký tỳ kheo tại làng Mai (Pháp) trong sự kiện Đài giới đàn Hương Tích của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Năm 1999, thầy được Thiền sư Thích Nhất Hạnh truyền đăng với bài kệ pháp: “Pháp đã trao lòng từ vàng thuở, hòa quang tiếp độ khắp quầng sân/Sen nở rạng ngời tròn chẳng nhiễm, độ hết muôn phương chốn hữu tình”.
Năm 2006, thầy được tấn phong là trụ trì của Trúc Lâm Thiền Viện. Năm 2007, thầy làm trụ trì của Tây Phương Thiền Viện, và được bầu làm Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Edmonton (Canada). Đến nay, thầy Thích Pháp Hòa cũng là một trong những số ít bậc tu hành sinh sống tại nước ngoài nhưng vẫn được lòng quý Phật tử trong nước.
Các bài thuyết giảng của thầy Pháp Hòa có nhiều chủ đề khác nhau: từ tình cảm gia đình đến tình yêu đôi lứa, từ lòng từ bi hỷ xả đến sự thù hận, hờn ghét,… đều được khéo léo lồng ghép với nhau để gần gũi với đại chúng. Thông qua đó, người nghe sẽ có dịp được mở mang góc nhìn và chiêm nghiệm về những vấn đề khác trong cuộc sống.
Từ đây tư tưởng và triết lý sâu xa của Phật giáo cũng được thấm nhuần một cách bền bỉ dưới hình thức kể chuyện gần gũi, thân thiện của thầy.
Trong giao tiếp, đặc biệt là thầy Pháp Hòa thường dùng nhân xưng “Pháp Hòa” hay “em” trong các Pháp thoại mà không xưng “thầy” như nhiều nhà tu hành khác. Thầy luôn gọi các Phật tử là “đại chúng”.
Ở chuyến hoằng pháp tại Thái Lan đầu xuân Giáp Thìn, theo ghi nhận có thầy Thích Minh Phú, Phó ban Từ thiện Xã hội Phật giáo TP.HCM cùng Phật tử chùa Tường Nguyên (quận 4) đón thầy Pháp Hòa ở sân bay Thái Lan.
Trở lại với câu ca “cò bay thì được, tôi về thì không…”.
Ngày 10-11-2023, Phó thủ tướng Trần Lưu Quang ký ban hành Quyết định số 1334/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới”. Theo đó ở phần “Phương châm” có nhấn hai ý là, “Các chính sách, quy định, biện pháp nhằm phát huy nguồn lực của NVNONN cần mạnh dạn, có đột phá, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng của đông đảo NVNONN.
Kết hợp hài hòa giữa công tác thu hút với công tác bồi dưỡng, hỗ trợ, phát triển nguồn lực NVNONN vì mục tiêu lâu dài”.
Và phương châm thứ ba lại là… răn đe: “Trong khi tranh thủ nguồn lực kiều bào, tiếp tục tăng cường cảnh giác, kiên quyết đấu tranh đối với các âm mưu và hành động khống chế cộng đồng, lợi dụng cộng đồng để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Từ những gì đã nêu ở Đề án này, để chứng minh rằng người cộng sản nói là làm, thiết nghĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần thiết “ủy quyền” cho một ngôi thiền tự nào đó ở Việt Nam đứng ra tổ chức các buổi hoằng pháp, với diễn giả chính là sư thầy Thích Pháp Hòa. Đây sẽ là một hành động thuận lòng dân, và giúp xóa dần cách nghĩ lâu nay là thể chế này “tự do tôn giáo” luôn mang… “định hướng chính trị” nặng tính thù địch.