Sinh Viên Hai Phong

Sinh Viên Hai Phong

Khách sạn nằm giữa trung tâm thành phố, gần các trung tâm thương mại, dịch vụ. Khách sạn cách sân bay Cát Bi khoảng 25 phút lái xe, cách sân bay Nội Bài khoảng 2,5 giờ lái xe.

Khách sạn nằm giữa trung tâm thành phố, gần các trung tâm thương mại, dịch vụ. Khách sạn cách sân bay Cát Bi khoảng 25 phút lái xe, cách sân bay Nội Bài khoảng 2,5 giờ lái xe.

Tiện nghi Hoang Hai Hotel Hai Phong

Miễn phí! Wi-fi có ở toàn bộ khách sạn.

Quy định Hoang Hai Hotel Hai Phong

Lancaster Building - 20 Núi Trúc - Giảng Võ - Ba Đình - Hà nội

Tầng 6 - Bạch Đằng Tower - 268 Trần Nguyên Hãn - Lê Chân - Hải Phòng

Tầng 6 tòa nhà HJL - 539 Trường Chinh - Tân Bình - Hải Dương

Số 15 - Đường 25/4 - Hòn Gai - Hạ Long

Tầng 4 - Tòa nhà TNL - Số 8 Đường Nguyễn Văn Cừ - P Trần Phú - TP Bắc Giang

Tầng 4 - Tòa nhà Số 82 Đại Lộ Đông A - Thành phố Nam Định

LK 16 - 35 Khu đô thị Kỳ Đồng - Phú Xuân - Thái Bình

một thoáng nhìn về mảnh đất và con người

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

Ðịa phận Hải Phòng, một thoáng nhìn về mảnh đất và con người.

Giáo phận Hải Phòng là phần đất đầu tiên mà cũng là mảnh đất sau cùng cuả Ðịa phận Ðông Ðàng Ngoài, nên có một lịch sử trải dài từ khởi nguồn xuất hiện Ánh sáng Tin Mừng nơi xứ Bắc. Bài viết này là một vài tản mạn về mảnh đất và con người cuả Giáo phận lâu đời và truyền thống này.

Theo chứng minh của một số nhà nghiên cứu đã công bố trên cuốn Niên giám Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 2005 và Nguyệt san Công giáo & Dân tộc, thì mảnh đất Ðịa phận Ðông Ðàng Ngoài, nay phần còn lại là Giáo phận Hải Phòng, được đón nhận Tin Mừng từ rất sớm. Năm 1583, một đoàn truyền giáo 7 người gồm 4 linh mục dòng Ða Minh Manila - Phi Luật Tân là: cha Diego Doropesa, cha Bartolomeo Ruiz, cha Pedro Ortiz, cha Francisco de Montilla cùng 3 tu sĩ dòng Thừa sai Phan Sinh đã đến truyền giáo ở An Quảng (nay là thị trấn Quảng Yên - tỉnh Quảng Ninh, thuộc Ðịa phận Hải Phòng). Ðoàn thừa sai đó tiếp tục lên đường và bị bão đánh dạt vào Trung Quốc, bị bắt giam, rồi được tha và trở về lại Manila (X. Ns. Công giáo và Dân tộc, số 49, 1-1999, tr. 117; Niên giám Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 2005, Nxb Tôn giáo, HN 2005, tr. 188; Romanet du Caillaud). Trong thực tế, khu vực Quảng Yên ngày nay hiện có một Giáo xứ toàn tòng khá lâu đời, còn đang lưu giữ một lịch sử truyền giáo với những chi tiết rất đặc biệt có vẻ mang đầy tính truyền thuyết rất cần nghiên cứu.

Thế nhưng nguồn gốc của cái tên Ðịa phận Ðông Ðàng Ngoài lại không phát xuất từ địa điểm đón nhận Tin Mừng xếp vào bậc tiên khởi trong khu vực trên, mà là một trung tâm về mặt hành chính đối ứng với xứ Bắc, xứ Nam và xứ Tây. Ðó chính là xứ Ðông mà sử sách chép lại là Che Dun (Kẻ Ðông) hay Hải Ðông nay là đất Hải Dương ngày nay.

Như nhà sử học H.Maspéro đã nói: "Trong lịch sử, cái gì có truyền thống nhất, sẽ tồn tại lâu dài nhất". Phát biểu này có thể áp dụng đúng với vùng đất Ðịa phận Ðông này. Qua bao thăng trầm và chia cắt, Ðịa phận Ðông vẫn giữ lại tên tuổi của mình trên phần đất mầm mống Che Dun thuở nào. Chỉ sau đó, đến năm 1924 Toà Giám mục mới chuyển từ Hải Dương sang Hải Phòng, là một thành phố mới cũng tách từ chính tỉnh Hải Dương hay Che Dun ngày trước rồi đổi tên thành Giáo phận Hải Phòng. Giáo phận Hải Phòng ngày nay bao gồm địa bàn của toàn thành phố Hải Phòng, toàn tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương và một phần tỉnh Hưng Yên. Diện tích xấp xỉ 10,000 km2 với tổng số dân địa phương là 4,854,292 người. Ðức Giám mục Giáo phận đương kim Giuse Vũ Văn Thiên là người con tiên khởi của Giáo phận làm Giám mục. Ðây là niềm tự hào lớn cho bao thế hệ gieo trồng hạt giống Ðức Tin nơi mảnh đất kiên trung này. Với sự kiện truyền chức 6 tân linh mục vào ngày 07/10/2007 vừa qua, Giáo phận hiện có 49 linh mục triều, 4 linh mục dòng (3 linh mục dòng Thánh Thể và 1 linh mục dòng Chúa Cứu Thế), 36 đại chủng sinh, hàng trăm ơn gọi đang chờ nhập học, 80 nữ tu, 750 Giáo lý viên, 78 giáo xứ với 118,583 tín hữu.

Bên cạnh khí thế đang lên của đời sống Ðức Tin, đến Hải Phòng ta có thể trở lại với những địa điểm, những công trình ghi lại dấu ấn lịch sử hay văn hoá, kiến trúc đặc sắc của Giáo phận như: Nhà thờ Chính toà Hải Phòng được Cha chính Masso Tế xây dựng năm 1877; tổng thể Giáo xứ Yên Trì xây dựng quy mô theo thế "ngũ long kính chủ" 5 nhà thờ xóm bọc quanh sườn và chân đồi hướng lên ngôi nhà thờ chính xứ lớn nhất nằm giữa đỉnh với khu nhà Mụ riêng biệt từng một thời là nhà mẹ của dòng Mến Thánh giá Hải Phòng. Từ nhà xứ thông lên đồi Ðức Mẹ (nay đã bị nhà nước chiếm dụng) là điểm có thể quan sát được một nửa tỉnh Quảng Ninh rộng lớn. Theo lịch sử thì đây là một trong những nơi được đón nhận ánh sáng Tin Mừng sớm nhất của Ðịa phận Ðông Ðàng Ngoài cũng như trong cả nước bởi đoàn thừa sai Ðaminh Manila năm 1583; Ta cũng có thể đến với nhà thờ Kẻ Sặt là nơi nhiều thời là cư sở của các Ðức Giám mục Giáo phận, nơi tổ chức Công Ðồng Bắc Kỳ đầu tiên năm 1900. Từ Kẻ Sặt; trở về khoảng 20 km là Ðền thánh Hải Dương, nơi chứng kiến những cái chết anh hùng của hàng trăm vị Tử Ðạo mà trong đó có nhiều vị đã được phong Hiển Thánh. Ðền thánh nay đã bị đổ nát và bị chiếm dụng nhiều nhưng vẫn là điểm hành hương hàng năm của Giáo phận như tỏ một lòng trung kiên của con cháu với mảnh đất linh thiêng và các bậc tổ tiên; Bên đất Hải Phòng, ta cũng có Ðền thánh Ðức Mẹ Mân Côi Nam Am. Thời Ðức Cha thánh Tử Ðạo Hermosilla Liêm, Nam Am từng là Toà Giám mục với một hệ thống cơ sở sinh hoạt tôn giáo sung túc, có Nhà Dòng, Ðại Chủng viện, trường tư thục Công giáo. Ngày nay Ðền thánh Nam Am được xây dựng lại khang trang mỹ miều theo lối kiến trúc cổ Ðông phương và đã được thánh hiến ngày 15/10/2006.

Ðến với Giáo phận Hải Phòng ngày hôm nay, ngoài một khung cảnh về đời sống mục vụ đang đổi sắc, chúng ta còn có thể được đổi mới tâm hồn, nâng cao cảm hứng với những thắng cảnh hùng vĩ, diệu kỳ bậc nhất của non sông đất Việt. Ðó là tổng thể vịnh Hạ Long thuộc địa phận Giáo xứ Hòn Gai - Quảng Ninh. Nơi đây đã được UNESCO xếp vào bậc các kỳ quan thiên nhiên thế giới; là khu danh thắng Yên Tử tỉnh Quảng Ninh, một trung tâm cổ kính của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam; là khu di tích Côn Sơn - Hải Dương có tiếng suối như tiếng cầm, rêu phơi như chiếu nệm... nằm trong hệ thống "Chí Linh bát cổ", nếu mang sánh ví về mặt lịch sử thì có thể trổi vượt cả "Tiêu tương bát cổ" bên Trung Quốc hay "Thăng Long bát cổ" của thủ đô Hà Nội ngày trước; Trở về tỉnh Hải Phòng mọi người cũng không thể không nhắc đến bờ biển Ðồ Sơn, huyện đảo-vườn quốc gia Cát Bà là những khu sinh thái, nghỉ mát làm mê hồn du khách...

Một mảnh đất có truyền thống Ðức Tin lâu đời và kiên trung, một mảnh đất có các cảnh quan thiên nhiên ưu đãi như thế chắc chắn không cần nói nhiều cũng có thể thấy được hình thái con người nơi đây. Lần giở một vài tài liệu có ghi chép về con người thuộc khu vực Ðông Ðàng Ngoài, ta thấy: Sách Lịch triều hiến chương của Phan Huy chú ghi: Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng châu (thuộc địa hạt Bình Giang và Ninh Giang - Hải Dương ngày nay), là người khoan hoà, hay thương người, cho nên có nhiều kính phục. Năm Bính Dần (906) được cử làm Tiết độ sứ để cai trị Giao Châu. Ông có ý mưu đồ nghiệp lớn, lập lại quyền tự trị dân tộc nhưng không thành; Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược thì viết về Hàn Thuyên như sau: "Ông Nguyễn Thuyên là người Thanh Lâm - Hải Dương, có tiếng tài làm văn như ông Hàn Dũ bên Tàu xưa, nên vua cho đổi họ Hàn. Về sau, người mình theo lối ấy mà làm thơ, gọi là Hàn luật". Nói về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Diên Hương trong Thành ngữ điển tích từ điển viết: Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiệu Bạch Vân cư sĩ, tục gọi Trạng Trình, người làng Trung Am, Vĩnh Lại, Hải Dương vốn tình tình trung thực ngay thẳng. Ðời Mạc, ông dâng sớ hạch tất cả 18 kẻ lộng thần. Sau ông về trí sĩ ở Bạch Vân Am. Vua Mạc vẫn kính trọng trong triều có việc gì đều hỏi; Ðức Cha Neez trong cuốn "Hàng giáo sĩ Bắc Kỳ" khi chép về cha Antôn Quế, cha xứ Hải Dương người Việt đầu tiên đã nhận định: "Cha là vị tông đồ hăng say có tiếng, đến nỗi mọi người đều cho rằng Cha đã làm cho nhiều linh hồn được trở lại cùng Chúa nhiều nhất" (Sđd, tr.53-54). Chính vị giám mục này cũng đánh giá rất cao linh mục Gioan Hậu quê Kẻ Châu - Hải Dương như sau: "Cậu Hậu đạt được những thành tích xuất sắc, nhưng nhất là cậu tỏ ra có tâm hồn thánh thiện, đạo đức trổi vượt" (Sđd, tr 176).

Chắc chắn một vài cá nhân xuất sắc trên không thể nói hết khuôn mặt con người Hải Phòng, nhưng một cách tổng quát con người Khu vực Ðịa phận này là như thế: trung kiên, thẳng thắn, cần mẫn tìm tòi, nhất là lòng hăng say dám đi tiên phong trong mọi sứ vụ của xã hội cũng như Giáo Hội. Bên trong là nội lực nhiệt thành như vậy, nhưng bên ngoài, người Hải Phòng lại tỏ lộ một phong thái phóng khoáng, đơn giản. Nổi bật là sự cởi mở mến khách như là đặc trưng của mảnh đất cổ Hải Ðông (Hải Dương) xưa luôn là đất lành cho các bậc hiền nhân, chẳng hạn: Trần Hưng Ðạo, Trần Nguyễn Ðán, Nguyễn Trãi, Chu Văn An... lưu luyến lúc tuổi già và quyết định chọn nơi đây làm quê hương sau cùng của mình./.

Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

A. Lược Sử Giáo Phận Hải Phòng

"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,

Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.

Xin mượn lời Thánh Vịnh để tóm lược những nét chính yếu khai sinh giáo phận Hải Phòng, một giáo phận được thành hình từ ân sủng, cùng với mồ hôi nước mắt, máu xương của các thừa sai linh mục, tu sĩ và giáo dân làm nên trang sử của giáo phận Hải Phòng và của Giáo Hội Việt Nam.

Ngày 9-9-1659, với Ðoản Sắc Super Cathedram Principis, Ðức Alexandrer VII (1655-1667) thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận: Ðàng Ngoài và Ðàng Trong. Vùng đất Hải Phòng, Hải Dương lúc này đã có những "cơ sở", giáo xứ quan trọng trong giáo phận tiên khởi Ðàng Ngoài như Xứ Ðoài, Xứ Bắc, Kẻ Sặt...

Năm 1679, Ðức Innocens XI (1676-1689) chia giáo phận Ðàng Ngoài làm hai: Ðông Ðàng Ngoài và Tây Ðàng Ngoài, lấy sông Hồng và sông Lô làm ranh giới. Cha Francois Deydier Phan thuộc Hội Thừa Sai Paris, được đặt làm giám mục tiên khởi của giáo phận Ðông Ðàng Ngoài, lúc đó tòa giám mục thường ở Phố Hiến (tên một cảng nằm trên tả ngạn sông Hồng, do nhà Lê mở vào cuối thế kỷ, phía Nam thị xã Hưng Yên ngày nay); sau đời Ðức cha Deydier, tòa giám mục thường đặt ở vùng Bùi Chu, đôi khi ở Kẻ Sặt, Hải Dương.

Theo báo cáo của các cha dòng Tên gửi Ðức cha J. de Bourges những nơi các ngài coi sóc (hiện nay nằm trong các giáo phận Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Hóa) năm 1668-1707, có số giáo dân như sau: Ðông và An Quảng 3,016; Bắc (Kẻ Noi) 990; Ðoài 6,250.

Ngày 5-9-1848, Ðức Piô IX (1848-1878) ban Chiếu thư chia tỉnh Nam Ðịnh và tỉnh Hưng Yên, lập thành giáo phận Trung, phần đất còn lại giữ tên cũ là giáo phận Ðông, do Ðức cha Jeronimo Hermosilla Liêm, OP. giám mục tiên khởi người Tây Ban Nha, coi sóc. Ngày 6-11-1861, ngài tử đạo tại khu Năm Mẫu (Hải Dương). Trong thời Ðức cha Liêm, giáo phận có diện tích đất rộng, lúc này giáo dân đã lên tới con số 45,000, ở rải rác trong 327 xứ, họ, trên tổng số dân là 3 triệu người. Tòa giám mục khi ở Nam Am, khi ở Kẻ Mốt (thuộc Bắc Ninh ngày nay). Giáo phận Ðông đã có các trường Lý Ðoán (Ðại Chủng Viện) và La Tinh (Tiểu Chủng Viện) ở Ðông Xuyên, Kẻ Mốt, Tử Nê.

Ngày 29-5-1883, Ðức Lêô XIII (1878-1889) công bố Chiếu thư lập giáo phận Bắc, một phần tách từ giáo phận Ðông, gồm các tỉnh Hải Dương (bấy giờ gồm cả Kiến An), Quảng Yên và Hải Ninh (tức Mông Cái), và vẫn giữ tên cũ là giáo phận Ðông do Ðức cha José Terrès Hiến coi sóc, tòa giáo mục đặt ở Hải Dương. Hải Phòng khi ấy chưa là sở cha chính, nhưng năm 1880, cha chính Salvador Masso Tế đã xây nhà thờ lớn.

Năm 1890, Ðức cha Hiến dời tòa giám mục ra Hải Phòng, còn sở cha chính chuyển sang Liễu Dinh một thời gian rồi đưa về Kẻ Sặt. Hàng giáo sĩ năm 1892 có Ðức cha Hiến, 32 linh mục triều, 8 thừa sai, 2 cha dòng người Việt, 82 thầy giảng, 20 chủng sinh thần học, 20 chủng sinh triết, 20 tiểu chủng sinh, 281 học sinh trường thử và 41,120 giáo dân.

Ngày 3-12-1924, Tòa Thánh đổi tên giáo phận Ðông theo địa hạt hành chính, nơi đặt tòa giám mục, gọi là giáo phận Hải Phòng, Ðức cha Francisco Ruiz de Azua Minh, OP. (1919-1929) coi sóc.

Ngày 14-1-1953, cha Giuse Trương Cao Ðại, OP. nhận sắc chỉ của Tòa Thánh làm giám mục Hải Phòng và thụ phong tại Hồng Kông. Sau khi về nước nhận giáo phận, ngài xây dựng giáo phận về cả vật chất lẫn tinh thần. Công việc đang thuận lợi thì Ðức cha lại phải di cư vào Nam sau hiệp định Genève (1954).

Ngày 7-5-1955, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Phêrô Khuất Văn Tạo làm giám quản tông tòa giáo phận Hải Phòng. Ngài được tấn phong giám mục tại nhà thờ Sơn Tây ngày 7-2-1956; ngày 28-4-1956, Ðức tân giám mục chính thức nhận giáo phận Hải Phòng.

Ngày 24-11-1960, Tòa Thánh thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, giáo phận Hải Phòng được nâng lên hàng chính tòa thuộc giáo tỉnh Hà Nội, Ðức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo được bổ nhiệm làm giám mục chính tòa của giáo phận Hải Phòng. Ðức cha đã cai quản giáo phận trong hơn 21 năm đầy gian khổ vì hầu hết các linh mục và giáo dân của giáo phận đã di cư vào Nam. Ngài mất ngày 19-8-1977. Hai năm sau (1979), giáo phận mới có Ðức cha Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương thụ phong giám mục ngày 18-2-1979 lên thay, ngài nhận giáo phận ngày 24-2-1979. Ngài đã trùng tu tòa giám mục, nhà thờ chính tòa và kiến tạo hơn 100 nhà thờ xuống cấp ở các giáo xứ và họ đạo, đào tạo và truyền chức cho hơn 20 linh mục. Ngài qua đời ngày 10-3-1999. Trong thời gian giáo phận trống tòa, Hội đồng Tư vấn Quản trị giáo phận, đứng đầu là linh mục niên trưởng Laurensô Phạm Hân Quynh. Linh mục Ða Minh Nguyễn Chấn Hưng làm giám quản giáo phận cho đến ngày Ðức Thánh Cha bổ nhiệm giám mục Giuse Vũ Văn Thiên làm giám mục chính tòa, ngày 26-11-2002.

Ranh giới: Giáo phận bao gồm toàn bộ thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, tinh Quảng Ninh và một phần nhỏ của tỉnh Hưng Yên.

- Linh mục triều: 43 (02 LM đang du học tại Pháp)

- Linh mục dòng: 2 (Dòng Thánh Thể)

- Chủng sinh đang học tại Ðại chủng viện Hà Nội: 35

Hải Phòng ở giữa các cửa sông của hệ thống sông Lục Ðầu: Bắc có sông Bạch Ðằng mà đoạn trên gọi là sông Kinh Thầy, Ða Bách (Ðá Bạc), dưới là cửa Nam Triệu, giữa là sông Kinh Môn, đổ ra biển bằng Cửa Cấm, đến sông Văn Úc, sông Thái Bình, đến sông Hóa chảy giữa Hải Phòng và Thái Bình.

- Nhà thờ Chính Tòa: xây dựng năm 1880.

- Ðền Thánh Tử Ðạo Hải Dương (hiện nay đã đổ nát, chưa khôi phục được)

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam

và được bổ túc thêm những chi tiết mới

dựa theo thông tin của TGM Hải Phòng ngày 26/03/2007)

Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page